Cách nền kinh tế Mỹ vận hành (phần 1): Nơi tình yêu bắt đầu
Hà Nội, ngày 26/6
Tiêu đề của chuỗi bài viết nghe đao to búa lớn thế thôi nhưng thực sự là việc tìm hiểu về cách vận hành của nền kinh tế Hoa Kỳ dễ dàng hơn Việt Nam rất rất nhiều nhờ cơ sở dữ liệu cực kỳ chi tiết và minh bạch về nền kinh tế (cảm ơn website https://fred.stlouisfed.org/ đã giúp mình thực hiện được chuỗi bài viết này). Mình không phải là kiểu người dễ dàng bị thuyết phục bởi các nhận định, phỏng đoán dựa trên cảm tính và thiếu sự chứng thực dữ liệu. Để thực hiện được bài viết này thì mình đã đi theo hướng ngược lại: dựa trên dữ liệu thực tế để viết chứ không dựa trên các nội dung trên, sách vở, báo chí, bài viết trên mạng. Do vậy, bạn có thể tin tưởng những nội dung trong chuỗi bài viết không phải là chém gió, phỏng đoán hay những thông tin mơ hồ không có căn cứ rõ ràng.
OK, let’s go !
Hình 1 là bức tranh toàn cảnh mô tả về mối quan hệ giữa các thành phần trong nền kinh tế Hoa Kỳ (trong quá trình viết bài mình có thể thay đổi một số cấu trúc của hình này). Thực chất toàn bộ nền kinh tế là dòng chảy của tiền tệ từ nơi này đến nơi khác. Sự đứt gãy hoặc yếu kém ở bất kỳ thành phần nào đều gây ảnh hưởng đến những thành phần còn lại và hậu quả để có thể như một quân cờ domino dẫn đến suy thoái kinh tế. Ở trong dòng chảy này, khu vực thượng nguồn hay khu vực bắt nguồn của dòng chảy là chính phủ Hoa Kỳ và FED (ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ). Khu vực trung nguồn có chức năng luân chuyển dòng tiền từ thượng nguồn xuống phía hạ nguồn là các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính như công ty chứng khoán, bảo hiểm, quỹ tiền tệ… Cuối cùng, khu vực thấp của dòng chảy này chính là người tiêu dùng và doanh nghiệp. Mọi cuộc suy thoái kinh tế đều được biểu hiện ở phía hạ nguồn nhưng thực chất chúng chỉ là hệ quả của một con thác từ phía trên đổ xuống. Trong phần 1 của chuỗi bài viết này, mình sẽ tập trung chính vào thành phần đầu tiên của khu vực thượng nguồn, khu vực Chính phủ.
Khác với Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ và Ngân hàng Trung ương (FED) là hai cơ quan hoạt động độc lập với nhau dù có một vài mối quan hệ nhất định. Quyền lực tài chính được chia làm hai phần: Chính phủ điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách tài khóa và FED điều tiết thông qua chính sách tiền tệ. Ưu điểm lớn nhất của mô hình này đó chính là hạn chế được việc Chính phủ “in tiền” một cách vô tội vạ gây ra lạm phát. Về cơ bản, chính phủ vẫn có thể chi tiêu không giới hạn thông qua vay mượn, tuy nhiên tiền chỉ được bơm ra nền kinh tế nếu người cho Chính phủ vay là FED.
Sự cân đối thu chi của Chính phủ với mục đích kích thích kinh tế gọi là chính sách tài khóa. Từ hình 1 có thể thấy được chính sách tài khóa tác động trực tiếp đến khu vực hạ nguồn mà không cần thông qua khu vực hạ nguồn. Do đó ưu điểm của chính sách tài khóa so với chính sách tiền đó đó là (1) nó gần như có tác động tức thì đến nền kinh tế và (2) nó có thể hướng trực tiếp đến đối tượng cần kích thích. Chính sách tài khóa có thể được thực hiện theo 2 cách: giảm thu hoặc tăng chi.
Hình 2 là chi tiết các khoản thu của Chính Phủ, trong đó các khoản thu chính bao gồm thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sản xuất và nhập khẩu, đóng góp cho chương trình bảo hiểm xã hội và cuối cùng là tiền lãi và cổ tức. Các nguồn chi tiêu ở hình 3, trong đó các khoản chi chính là chi tiêu dùng, phúc lợi và trợ cấp, chi đầu tư và thanh toán nợ.
Các khoản chi chính của Chính phủ Hoa Kỳ
Các khoản thu chính của Chính phủ Hoa Kỳ
Các khoản chi chính của Chính phủ Hoa Kỳ
Các khoản thu chính của Chính phủ Hoa Kỳ
Các khoản thu chính của Chính phủ Hoa Kỳ
Một vài điểm cần lưu ý về cán cân thu chi của Chính phủ Hoa Kỳ
1. Thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ được cắt giảm trước tiên khi nền kinh tế yếu đi (trước suy thoái) và việc cắt giảm thuế thu nhập cá nhân sẽ được sử dụng khi nền kinh tế bước vào suy thoái. Hình 4 là tỷ lệ các loại thuế suất chính ở Hoa Kỳ. Có thể thấy được thuế Sản xuất và nhập khẩu (chủ yếu là thuế VAT) gần như đi ngang ở mức 6%, trong khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhất được điều chỉnh rất linh hoạt để kích thích kinh tế.Trong cuộc suy thoái gần nhất 2020, thuế thu nhập cá nhân được cắt giảm khoảng 6% trong quý 2 2020 (dữ liệu trong hình là được tính toán trượt 12 tháng nên sẽ khác số mà mình tính ra) giúp tăng thu nhập giữ lại của người tiêu dùng từ đó kích cầu chi tiêu.
Bối cảnh hiện tại dường như đang được lặp lại mặc dù hơi khác một chút. Nếu bạn thắc mắc tại sao nền kinh tế Mỹ được bơm ô xy trong quý 1 khi FED vẫn duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ thì đây chính là câu trả lời: chính sách tài khóa đã được sử dụng ngay trong quý 1. Hình 5 là thay đổi các nguồn thu của Ngân sách so với cùng kỳ trong 2 quý gần nhất. Trong quý 1 năm nay, thu ngân sách của của chính phủ Hoa kỳ giảm khoảng 355 tỷ, chủ yếu từ giảm thu thuế cá nhân. Tỷ lệ thuế thu nhập cá nhân giảm khoảng 6% theo tính toán của mình.
2. Mối quan hệ vô cùng đặc biệt của FED và Chính phủ: toàn bộ lợi nhuận của FED sẽ chuyển thẳng cho Chính phủ. Điều này giải thích vì sao FED rất hiếm khi mua tài sản xấu vì điều này sẽ càng làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách của Chính phủ sẽ trở nên càng nặng nề. FED có khả năng in tiền nhưng lại là một tổ chức hoạt động có lợi nhuận. Phần lớn tài sản nắm giữ của FED là trái phiếu Chính phủ, trong số đó có một lượng không nhỏ con nợ là chính Chính phủ. Hình 6 là giá trị các khoản nợ Chính phủ có chủ nợ là FED. Tính đến cuối quý, giá trị của chúng đạt khoảng 5.7 nghìn tỷ. Các khoản nợ này về lý thuyết sẽ không phát sinh lãi suất vì tiền lãi thu được trong trường hợp FED hoạt động không lỗ sẽ được hoàn trả lại cho Chính phủ.
Hình 7 là lợi nhuận hoạt động của FED. Trước 2022, mỗi năm FED đem về cho Chính phủ khoảng hơn 100 tỷ. Việc mua vào và nắm giữ các tài sản xuất đã khiến FED lần đầu tiên ghi nhận lợi nhuận âm trong quý 4 2022 và quý 1 năm nay. Điều này không ảnh hướng đến FED nhưng sẽ khiến tình trạng thâm hụt của Chính phủ trở nên nặng nề hơn do thiếu đi một nguồn thu không nhỏ.
3. Đầu tư công không phải là chìa khóa cho chính sách tài khóa của Hoa Kỳ. Đầu tư Chính phủ là các khoản chi cho các tài sản công mang lại lợi ích trong lâu dài như xây dựng cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và phát triển khoa học, dự án môi trường, giáo dục, quốc phòng. Tuy nhiên các khoản chi này chỉ chấm khoảng 10% tổng chi tiêu của Chính phủ do đó tác động là không lớn. Hình 8 là tăng trưởng đầu tư công qua các quý của Hoa Kỳ, tỷ lệ này giao động khoảng từ 0 đến 10% mỗi năm.
4. Phúc lợi và trợ cấp được chuyển thẳng đến người tiêu dùng nên sẽ ưu tiên sử dụng trong trường hợp xảy ra suy thoái. Khoản chi này bao gồm các khoản như trợ cấp thất nghiệp, an ninh xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… Trong các cân chi tiêu của Ngân sách thì đây là khoản chi chiếm trọng số lớn nhất trong tổng chi tiêu của chính phủ. Hãy xem chính sách tài khóa về đầu chi của chính phủ để kích thích kinh tế trong giai đoạn Covid.
Hình 9 là thay đổi tổng chi tiêu của chính phủ trong 2 năm 2020 và 2021. Trong năm covid 2020, tổng chi tiêu của chính phủ tăng gần 1 nghìn tỷ, chủ yếu đến từ khoản phúc lợi xã hội và trợ cấp. Để tưởng tượng con số này lớn đến mức nào thì nó tưởng đương với 4.3% GDP của Hoa Kỳ, có nghĩa là nếu người tiêu dùng tiêu hết số tiền trợ cấp của chính phủ thì tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ cũng đã được kéo lên 4.3%.
5. Chính sách tài khóa là có giới hạn. Về lý thuyết Chính phủ Hoa Kỳ không thể “in tiền” hoặc vay mượn vô hạn để chi tiêu. Trái phiếu Chính phủ Hoa Kỳ là tài sản có tính rủi ro thấp nhất không sai nhưng không phải là Chính phủ Mỹ không có khả năng vỡ nợ. Trong một điều kiện kinh tế bình thường hoặc cần nới lỏng, FED sẽ là một trong những khách lớn của Chính phủ Hoa Kỳ.
Tuy nhiên với cơ chế hoạt động độc lập và trong điều kiện cần thắt chặt chính sách tiền tệ thì FED có quyền say no đối với việc mua vào trái phiếu do Chính phủ phát hành. Lúc này “người cho vay” chính cho chính phủ sẽ là các tổ chức tài chính trong nước và nhà đầu tư nước ngoài và nguồn lực này là có giới hạn. Cái giá cho việc FED sử dụng nguồn lực vô hạn của mình để giải cứu chính phủ chính là đánh đổi bằng lạm phát. Do đó, chính phủ không thể sự dụng chính sách tài khóa liên tục để thúc đẩy kinh tế. Bên cạnh tăng trưởng kinh tế và ổn định lạm phát thì mục tiêu thứ 3 của chính phủ chính là giảm thiểu thâm hụt ngân sách.
6. Việc chính sách tài khóa được sử dụng quá dễ dãi như giai đoạn Covid đã đẩy Hoa Kỳ vào tình trạng thâm hụt nặng nề kéo theo lạm phát ở mức cao. Hình 10 tỷ lệ nợ công/GDP của Hoa Kỳ qua và chi phí trả lãi cho khoản nợ này. Hai năm thâm hụt quá mức 2020 và 2021 đã đẩy tỷ lệ nợ công tăng hơn 17% và đạt khoảng 120% GDP của Hoa Kỳ. Cùng với đà tăng của lãi suất thì chi phí trả lãi vay cũng lên 50% lên khoảng 1.200 tỷ mỗi năm.
Nguồn tiền nào để chi trả cho các khoản nợ và lãi vay này? Mọi chi tiêu của chính phủ đều được tài trợ chính bằng nguồn thu thuế của doanh nghiệp và người dân. Tăng trưởng kinh tế bằng chính sách tài khóa ở thời điểm hiện tại chính là đánh đổi tăng trưởng cho tương lai. Để giảm áp lực nợ công thì Chính phủ chỉ 2 sự lựa chọn: một là tăng thu hai là giảm chi tiêu trong tương lai. Và đây chính là một trong những cội nguồn của suy thoái. Hình 11 là thâm hụt ngân sách của Hoa Kỳ qua các năm. Nếu chúng ta để ý kỹ, trước mỗi cuộc suy thoái là nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ. Trước suy thoái 2001, thâm hụt ngân sách từ 4.4% chuyển sang thặng dư 2.3%. Trước khủng hoảng 2008, thâm hụt từ 3.3% thu hẹp còn 1.1%. Và trước thời điểm hiện tại, thâm hụt ngân sách đang giảm từ 14.9% còn 5.4%.
Nếu chính phủ vay nợ thì con cháu chúng ta hoặc sẽ trả lãi hoặc sẽ có ít công viêc để vui chơi hơn. Một ngày đẹp trời Chính phủ “bắn” cho bạn 10 triệu vào tài khoản, đừng vội mừng vì đó chính là khoản tiền mà chúng ta “vay” từ con cháu của chính mình.
To be không tình iu …